ĐỨC MẸ NÚI CÁT MINH
Ngày 16
tháng Bảy
___________
I. NGUỒN GỐC L̉NG SÙNG KÍNH ĐỨC MẸ NÚI CÁT MINH
Đức Mẹ núi Cát Minh
là Đức Mẹ được sùng kính trong Ḍng Cát Minh. Núi
Cát Minh (tiếng Do Thái là Karmel, nghĩa là vườn
trái cây) ở phía bắc Palestina, cao hơn mặt biển
1,800 feet, nh́n ra Địa trung hải. Núi Cát Minh bên
cạnh cánh đồng cỏ xanh tươi dưới con mắt của tiên
tri Giêrêmia (50:19), với cảnh huy hoàng dưới ánh
nh́n của tiên tri Isaia (35:2). Tiên tri Elia đă
chọn núi Cát Minh làm địa điểm thách đố 450 sư săi
sát tế một ḅ tơ rồi kêu khấn thần Baal từ sáng đến
tối mà không được chấp nhận bằng lửa thiêu. Tiên tri
cũng sát tế một ḅ tơ dâng hiến Đức Giavê, và của lễ
liền được Người chấp nhận bằng cách khiến lửa bởi
trời xuống toàn thiêu lễ vật (1 V 18:20-40).
Cát Minh đă trở nên
linh địa cho các ẩn sĩ trụ tŕ. Theo Đức Cha James
Vitry, Giám mục thành Acre, bắc Palestina
(1216-1228), các đan sĩ Carmelô tiên khởi sống đời
sống cô tịch, chiêm niệm trong các pḥng riêng như
bọng ong theo giống mẫu tiên tri Elia và tận hiến
cho Đức Mẹ. Từ thời Nghĩa binh Thánh giá, ḷng sùng
kính Đức Mẹ núi Cát Minh được chia ra ba thời kỳ:
1. Đức Mẹ Cát Minh
được sùng kính như Bổn mạng gọi là "Bổn mạng các ẩn
sĩ Cát Minh". Về sau, các ẩn sĩ c̣n gọi Mẹ Maria là
"Mẹ các ẩn sĩ Cát Minh". Ḷng sùng kính này đă dâng
cao trong các thế kỷ XIII và XIV.
2. Trong hai thế kỷ
XIV và XV, Đức Mẹ Cát Minh được sùng kính như "Đức
Trinh Nữ rất trinh trong" toàn hiến cho Thiên Chúa
cả hồn xác, và vẹn sạch mọi tội lỗi. Do đó, Ḍng Cát
Minh hăng say bênh vực tín lư Mẹ Vô nhiễm đang thời
kỳ bàn căi, chưa được định tín.
3. Sang giai đoạn thứ
ba, ḷng sùng kính Đức Mẹ Cát Minh được thực hiện
qua "Áo Đức Mẹ Cát Minh" màu nâu, tượng trưng sự che
chở đặc biệt của Đức Mẹ. Áo là một biểu tượng trong
truyền thống Kitô giáo, nhất là ở Giáo hội Đông
phương có "Ảnh Đức Mẹ áo choàng". Áo Đức Bà cũng
tượng trưng việc tận hiến cho Đức Mẹ.
II.
LỊCH SỬ ÁO ĐỨC BÀ CÁT MINH
V́ gặp nhiều khó khăn,
Ḍng Cát Minh di chuyển sang Cambridge, nước Anh.
Thánh Simon Stock là tu viện trưởng đă kêu xin Đức
Mẹ cứu giúp. Ngày 16 tháng 7 năm 1251, Đức Mẹ hiện
ra giữa số đông các thiên thần, trao áo Đức Mẹ mà
phán: "Con yêu dấu, con hăy nhận lấy áo của ḍng con
đây làm biểu hiệu liên minh với Mẹ. Ai chết đang khi
mặc Áo này sẽ không phải rơi xuống ngục lửa đời đời".
Đến ngày 3 tháng 3 năm 1322, Đức Mẹ hiện ra với Đức
Gioan XXII trao cho ngài "Minh ước yêu đương" là
truyền dạy ngài công bố cho những ai mang Áo Đức Mẹ
biết: "Ngày thứ Bảy đầu tiên sau khi chết họ sẽ được
cứu thoát khỏi luyện ngục". Ân huệ này gọi là "Đặc
ân ngày thứ Bảy" và được nhiều vị Giáo hoàng như các
Đức Alexandrô V, Thánh Piô V, Grêgôriô VIII, và
Phaolô V công nhận.
III. ĐẶC ÂN NGÀY THỨ BẢY
ĐƯỌC GIÁO HỘI CHUẨN NHẬN
Ngày 30 tháng 1 năm
1613, trước sự hiện diện của Đức Phaolô V, Pháp đ́nh
Toà thánh sắc lệnh rằng các tu sĩ ḍng Carmelô được
truyền giảng "Đặc ân ngày thứ Bảy", và ngày
04-7-1908 được Thánh bộ Ân xá chấp nhận.
Năm 1910 Đức Thánh
Piô X ban phép đeo ảnh thay Áo Đức Mẹ. Thánh bộ công
bố đeo ảnh thay Áo được hưởng mọi ân xá và Đặc ân
ngày thứ Bảy, miễn là ảnh đó một bên là ảnh Chúa
Giêsu tỏ Trái Tim Người ra. Bên kia là ảnh Đức Mẹ
(không cần là Đức Mẹ Carmelô).
Năm 1922 kỷ niệm 600
năm Đặc ân ngày thứ Bảy, Đức Piô XI gửi một tông thư
cho Bề trên Cả ḍng Carmelô về những ân xá và đặc ân
ngày thứ Bảy: "Ta khích lệ những người vào hội Áo
Đức Mẹ hăy bền vững nhiệt thành giữ những điều chỉ
dạy để hưởng những ân xá và Đặc ân ngày thứ Bảy. V́
Đức Mẹ yêu quí những ai yêu mến Mẹ, và không ai
không có quyền tin tưởng sự hộ giúp đặc biệt của Mẹ
trong giờ chết, nếu trong đời sống, họ xa lánh tội
lỗi và làm mấy việc đạo đức kính Mẹ".
Năm 1950, dịp kỷ niệm
700 năm Đức Mẹ hiện ra với thánh Simon Stock, Đức
Piô XII gửi một tông thư cho Bề trên cả ḍng Carmelô
cũng nói về Đặc ân ngày thứ Bảy: "Áo Đức Mẹ là dấu
hiệu và bảo chứng sự bảo trợ của Mẹ Thiên Chúa.
Nhưng những người mặc Áo này đừng tin rằng dù họ trễ
nải và lơ là việc thiêng liêng mà được ơn Cứu rỗi,
như thánh Phaolô căn dặn: 'Anh em hăy biết kính giới
và run sợ mà gia công lo việc rỗi linh hồn ḿnh' (Pl
2:12)... Các đan sĩ Cát Minh hay hội viên Hội Áo Đức
Mẹ hăy tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Trinh Nữ
Maria. Nhờ lời cầu bầu của Mẹ trước toà Chúa, Mẹ sẽ
mau chóng mở cửa thiên đàng sớm bao nhiêu có thể cho
những con cái Mẹ đang chịu đền tội trong luyện ngục
mà đă cậy trông vào lời hứa Đặc ân ngày thứ Bảy".
IV. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỌC HƯỞNG ĐẶC ÂN NGÀY THỨ BẢY
Toàn dân Kitô hữu hăy
đạo hạnh tin rằng Đức Thánh Trinh Nữ Maria luôn luôn
can thiệp đem công đức và sự phù tŕ đặc biệt của Mẹ
mà cứu vớt hết các hội viên Hội Áo Đức Mẹ Carmelô
vào một ngày thứ Bảy, ngày đặc biệt dâng kính Mẹ,
sau khi họ qua đời, miễn là họ ĺa thế:
1. Đang khi được ơn
nghĩa cùng Chúa.
2. Đang mang Áo Đức
Mẹ.
3. Và giữ đức khiết
tịnh tùy bậc ḿnh.
4. Đă từng đọc kinh
Nhật tụng kính Đức Mẹ, hoặc nếu không đọc được, th́
đă giữ chay các ngày Giáo hội dạy, và kiêng thịt các
ngày thứ Tư và thứ Bảy, trừ khi gặp lễ Giáng Sinh.
Cách thay đổi thông thường nhất là hằng ngày đọc một
chuỗi Mân côi hay là 7 kinh Lạy Cha, 7 kinh Kính
mừng, và 7 kinh Sáng danh.
V. KINH ĐỌC BUỔI SÁNG CỦA NGƯỜI ĐEO ÁO ĐỨC BÀ
Lạy Thiên Chúa của
con, con xin hợp với Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria (hôn
Áo Đức Mẹ) để dâng cho Chúa Máu Thánh châu báu Chúa
Giêsu trên các bàn thờ khắp thế giới. Con cũng xin
hợp với Máu Thánh Chúa Giêsu để dâng cho Chúa mọi tư
tưởng, mọi lời nói, và mọi việc làm của con trong
ngày hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, ngày
hôm nay, con ước mong được hưởng mọi ân xá mà con có
thể được hưởng. Con cũng xin dâng các ân xá ấy cùng
với chính ḿnh con cho Mẹ Maria Vô nhiễm để Mẹ làm
vinh danh Thánh Tâm Chúa.
Lạy Máu Thánh châu
báu Chúa Giêsu, xin cứu chúng con. Lạy Thánh Tâm
Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con.
VI. SỰ XÁC THỰC LỊCH SỬ ÁO ĐỨC BÀ
Sự kiện lịch sử Đức
Mẹ hiện ra trao Áo Đức Mẹ cho Thánh Simon Stock rất
xác thực do bốn bằng chứng:
1. Các bản thống kê
của Ḍng Cát Minh,
2. Chứng từ của cha
William Sanvino, Ḍng Cát Minh tại Đất Thánh năm
1291,
3. Mấy sự kiện lịch
sử:
a) Hiến pháp Ḍng Cát
Minh năm 1294 và năm 1324 cho là một lỗi nặng nếu tu
sĩ Ḍng Cát Minh ngủ mà không mặc áo ḍng
(Scapular).
b) Hiến pháp Ḍng Cát
Minh năm 1369 qui định tuyệt thông cho một linh mục
Ḍng Cát Minh làm lễ mà không mặc áo ḍng
(Scapular).
c) Thánh Anphong và
nhiều Thánh khác quả quyết rằng ai thực sự sùng kính
Đức Mẹ, sẽ không phải hư mất.
4. Chứng từ của các
Thánh:
a) Thánh De la
Colombière nói: "Áo Đức Bà là một dấu tiền định như
các việc khác sùng kính Đức Mẹ".
b) Thánh Anphong nói:
"Những bậc vị vọng ở đời thường lấy làm vinh hạnh v́
có những người mang hiệu phục của ḿnh. Đức Mẹ Đồng
trinh Maria cũng hân hoan v́ các con cái của Mẹ mang
Áo Mẹ như vậy, để chứng tỏ họ thực sự đă hiến thân
phụng sự Mẹ, và thuộc hẳn vào gia đ́nh của Mẹ Thiên
Chúa.
5. Thánh Gioan Boscô
đă mặc Áo Đức Bà, chết năm 1888 và cũng vẫn mặc Áo
Đức Bà khi được an táng. Thi hài ngài được cải táng
năm 1929, Áo Đức Bà vẫn c̣n nguyên vẹn trong khi các
áo ngài đă bị mục nát.
6. Nhiều vị Giáo
hoàng tỏ ḷng yêu thích Áo Đức Mẹ, đă ban nhiều ân
xá.
VII. SỰ XÁC THỰC ĐẶC ÂN NGÀY THỨ BẢY
Ngày 3 tháng 3 năm
1322, Đức Mẹ hiện ra với Đức Gioan XXII và dạy phải
công bố cho hết những ai mang Áo Đức Bà được biết:
"Ngày thứ Bảy đầu tiên, sau khi họ chết, họ sẽ được
cứu thoát khỏi luyện ngục". Ân huệ này được gọi là
"Đặc ân ngày thứ Bảy". Để công bố đặc ân này, Đức
Gioan XXII đă ban hành Tông huấn "Sacramen-tissimo
uti culmine = Đỉnh núi Thánh". Tông huấn này đă bị
mất, nhưng theo sử gia Eugenio S. Joseph, nhiều bản
sao năm 1421 đă chứng minh được sự xác thực của "Đặc
ân ngày thứ Bảy". Bản sao Tông huấn của Đức Clêmentê
VII ngày 15 tháng 5 năm 1528 nói đến việc cứu thoát
khỏi luyện ngục nhưng không được long trọng ban
hành, v́ Rôma bị cướp phá năm 1527. Ngày 12 tháng 8
năm 1530 Đức Clêmentê VII chính thức ban hành một
bản sao mà chỉ nói đến lời hứa đặc biệt cứu giúp chứ
không nói đến việc được cứu thoát khỏi luyện ngục.
VIII. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Khi lập thành ḍng
năm 1209, các ẩn sĩ Cát Minh kiến thiết một nguyện
đường dâng hiến Đức Mẹ ở giữa đan viện và đặt nhiều
kinh nguyện về Mẹ. Hàng tuần và hàng năm, các ẩn sĩ
mừng lễ kính nhớ và tạ ơn Đức Mẹ đă ǵn giữ che chở
ḍng. Thế kỷ XIV lễ kính nhớ Đức Mẹ được mừng trọng
thể ngày 17 tháng 7 kỷ niệm ngày 17 tháng 7 năm 1274
bế mạc Công đồng Lyon (Pháp) đă ban phép Ḍng Cát
Minh tiếp tục sinh hoạt. Thế kỷ XV lễ này được đổi
sang ngày 16 tháng 7. Trong thời kỳ sùng kính Đức Mẹ
đồng trinh, các ẩn sĩ Ḍng Cát Minh thay thế tước
hiệu "Thánh Maria" trong sách lễ năm 1589 bằng tước
hiệu "Đức Thánh Nữ Trinh". Năm 1587 Đức Sixtô V ban
phép Ḍng Cát Minh được mừng lễ Đức Mẹ Cát Minh. Và
khi di cư sang Âu châu, họ đặt tên nhà thờ của ḍng
họ là "Truyền tin". Cuối thời Trung cổ, ḷng sùng
kính Đức Mẹ núi Cát Minh cùng với phong trào đeo Áo
Đức Bà lan rộng, Đức Bênêđictô XIII truyền dạy mừng
lễ Đức Mẹ núi Cát Minh khắp Giáo hội năm 1726. Năm
1960 lễ này chỉ c̣n là Lễ Nhớ.
IX. Ư NGHĨA PHỤNG VỤ
1. Đức Mẹ núi Cát
Minh là Đấng phù trợ Ḍng Cát Minh và những người
vào hội mặc áo Đức Bà là bảo chứng ơn phù trợ đặc
biệt của Mẹ như Đức Mẹ đă hứa là ai chết mà mặc Áo
Đức Bà th́ khỏi phải sa hoả ngục.
2. Tước hiệu Đức Mẹ
núi Cát Minh chứng tỏ Mẹ Maria là mẫu gương đời sống
nội tâm. Đời sống nội tâm là đời sống mật thiết kết
hợp với Chúa và làm cho mọi hoạt động bề ngoài có
giá trị. Chúa Giêsu sánh ví đời sống nội tâm như
cành nho với cây nho. Nếu cành nho khô héo không thể
tiếp nhận được mạch nhựa của thân cây nho.
3. Giáo hội khích lệ
con cái Giáo hội mặc Áo Đức Bà để được ơn phù trợ và
được hưởng quyền bầu cử rất thế lực của Mẹ và như
một phương thế biểu chứng đức tin.
4. Áo Đức Mẹ nhắc nhở
người mặc về giá trị đời sống là con cái của Chúa và
của Đức Mẹ sốt sắng tôn thờ Chúa và sùng kính Đức
Mẹ.
X. Ư NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I: Dacaria
2:14-17.
Phần một sách triên
tri Dacaria được viết quăng năm 520-519 trước Thiên
Chúa giáng sinh. Tiên tri lo lắng tái thiết Đền thờ
và đặc biệt phục hồi luân lư cho dân chúng. "Đức
Giavê phán: Nữ tử Sion hăy reo lên v́ Ta đến ở giữa
ngươi". Chúa đến cùng với sự kiện "nhiều dân tộc sẽ
trở lại". Chúa chúc lành nhưng đ̣i hỏi phải đáp trả
bằng ḷng tin và cải hối. "Đức Giavê sẽ chiếm hữu"
nghĩa là sẽ bảo vệ nước Giuđêa.
Khi cầu xin Mẹ Maria,
chúng ta luôn cậy trông quyền năng che chở của Thiên
Chúa nhờ lời Mẹ cầu bầu. Những lời "Toàn dân hăy im
đi trước nhan Đức Giavê" làm ta nhớ lại đời sống
chiêm niệm của các ẩn sĩ Ḍng Cát Minh. Ư nghĩa lệnh
truyền này là dân chúng phải lắng nghe khi Chúa nói.
Sự chiêm niệm đ̣i hỏi phải lắng nghe trong khi phụng
thờ im lặng.
Phúc âm: Matthêu
12:46-50.
Ư nghĩa trực tiếp lời
Phúc âm này là "Ai làm theo ư Chúa Cha" th́ được
chúc phúc. Ḷng tin ngoan ngoăn càng có ư nghĩa hơn
mối thân hệ họ hàng tự nhiên của Chúa Giêsu. Lời
Phúc âm này cũng mời gọi chúng ta hăy coi t́nh môn
đệ với Chúa Giêsu như mối thân hệ mới với Người. Giơ
tay về phía các môn đệ của Người, Chúa Giêsu nói:
"Bất cứ ai làm theo ư Cha Ta, Đấng ngự trên trời,
th́ kẻ ấy là anh chị em và là mẹ Ta". Khi làm theo ư
Chúa Cha, chúng ta trở nên con cái của Người. Do đó,
chúng ta được vào trong mối thân hệ anh chị em với
Chúa Giêsu. Hơn thế nữa, với ḷng tin ngoan ngoăn,
chúng ta làm theo ư Chúa Cha là đem Chúa Giêsu vào
nhà chúng ta, vào đời sống chúng ta. Như vậy, chúng
ta là mẹ của Chúa cách tượng trưng v́ chúng ta cho
Chúa đời sống và sự hiện hữu một cách mới mẻ. Thánh
sử Luca 8:19-21 cũng tŕnh thuật lời Phúc âm này.
XI. LỜI CÁC THÁNH
- Thánh Bônaventura:
Nơi luyện ngục, Mẹ Maria thường đích thân xuống an
ủi các linh hồn đang bị giam cầm.
- Thánh Brigitta nghe
Chúa Giêsu nói với Đức Mẹ: "Mẹ là Mẹ Con, là Mẹ t́nh
thương. Mẹ là nguồn an ủi những linh hồn luyện
ngục".
- Mẹ Maria phán bảo
Thánh Brigitta: "Mẹ là Mẹ của tất cả các linh hồn
đang đau khổ trong luyện ngục. Nhờ lời từ ái Mẹ cầu
xin cách này hay cách khác, những h́nh khổ các con
Mẹ chịu trong nơi đó v́ tội đă phạm khi c̣n sống đă
được giảm bớt từng giờ từng phút... Một người nghèo
lâm bệnh, quằn quại đau đớn và nằm liệt cô đơn trên
giường bệnh, cảm thấy được an ủi khi có người đến ủi
an. Cũng vậy, khi nghe kêu tên Mẹ, các linh hồn
luyện ngục thảy đều được tràn ngập ủi an".
- Thánh Vinh-sơn: Từ tâm của Mẹ Maria đối với các
linh hồn luyện ngục thật cao cả. Nhờ Mẹ, các linh
hồn ấy đă t́m được niềm ủi an. Rất Thánh Trinh Nữ an
ủi và trấn an những người hấp hối và đón rước linh
hồn họ".
- Thánh Bênađinô: Rất Thánh Đồng Trinh Maria sẽ cầu
xin và áp dụng công trạng của Mẹ để giải cứu khỏi
luyện ngục hết những linh hồn nào Mẹ muốn, nhất là
các tôi trung của Mẹ.
- Thánh Anphong:
Những tôi trung của Mẹ Maria thật là những người
hạnh phúc. Không những Mẹ chí nhân chỉ cứu trợ họ
khi họ c̣n sống ở cơi đời tạm này, mà t́nh bảo hộ
của Mẹ c̣n trải dài trên họ tới cả luyện ngục.
XII. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
1. Đức Phaolô V: Toàn
dân Kitô hữu hăy sốt sắng tin rằng Rất Thánh Trinh
Nữ Maria luôn luôn can thiệp đặc biệt phù tŕ cứu
vớt các hội viên hội Áo Đức Mẹ Cát Minh vào ngày thứ
Bảy, ngày biệt kính Đức Mẹ, sau khi họ qua đời, miễn
là họ chết đang khi được ơn nghĩa cùng Chúa, đang
mang Áo Đức Mẹ và giữ đức thanh khiết tùy bậc ḿnh,
đă từng đọc kinh Nhật tụng kính Đức Mẹ, nếu không
đọc được th́ giữ chay các ngày Giáo hội qui định, và
kiêng thịt ngày thứ Tư, thứ Bảy trừ khi gặp lễ Giáng
sinh.
2. Đức Bênêđictô XIV:
Đừng có ai từ khước ḷng sùng kính Đức Mẹ Carmelô mà
các Đức Giáo hoàng đă ban nhiều ân xá, v́ nhờ Rất
Thánh Trinh Nữ cầu bầu, Thiên Chúa đă làm nhiều phép
lạ cho những người thực hành ḷng sùng kính này.
3. Đức Piô XI: Ta khuyên nhủ những người Công giáo
khắp thế giới hăy tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria núi
Carmelô.
4. Đức Piô XII: Áo
Đức Mẹ là dấu chỉ tận hiến cho Trái Tim rất thánh
của Đức Nữ Trinh Vô Nhiễm, và là một bằng chứng sự
che chở của Mẹ Thiên Chúa.
L.m. Phêrô, CMC |